Số liệu giật mình
Cầm trên tay kết quả phân tích asen (tức thạch tín) trong nước ngầm của Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên - Môi trường), anh Trần Ðức Thắng ở xóm hai, xã Giao Tân, huyện Giao Thủy thật sự lo lắng khi biết nguồn nước ngầm gia đình sử dụng bao năm nay đã nhiễm asen ở mức độ nặng, vượt tiêu chuẩn quy định tới 17%. Các hộ dân thuộc xóm 7, xóm 8, xóm 9 và xóm 12 cũng nhận được thông tin nguồn nước giếng khoan, giếng đào đều nhiễm asen. Cách đây chưa lâu, tại xã Giao Châu, đoàn công tác của Bộ Khoa học - Công nghệ tiến hành lấy mẫu nước ngầm phân tích, sau đó thông báo cho chính quyền địa phương: Tại các xóm Tiên Hưng, Tiên Long, Lạc Thuần, Mỹ Bình, Thành Thắng nước nhiễm asen vượt tiêu chuẩn quy định 20% và khuyến cáo người dân không được sử dụng trong ăn uống hằng ngày. Theo thống kê của xã Giao Châu, trên địa bàn hiện có 1.338 giếng khoan sâu 8 m và khoảng 500 giếng khơi đều có chất lượng nước không bảo đảm tiêu chuẩn. Dễ thấy nhất là tỷ lệ sắt trong nước rất cao, nếu để nước qua một đêm hoặc trong thời gian từ 10 đến 12 tiếng thì trên bề mặt xuất hiện lớp váng vàng, có mùi tanh khó chịu. Từ nhiều nguồn vốn, huyện Giao Thủy đã xây dựng được bốn trạm cấp nước sinh hoạt phục vụ cho nhân dân các xã Giao Tiến, Giao An, Giao Phong và thị trấn Ngô Ðồng nhưng chất lượng nguồn nước lấy từ các con sông chảy qua địa bàn cũng chưa đạt tiêu chuẩn quy định. Trung tâm quan trắc và phân tích tài nguyên môi trường tỉnh Nam Ðịnh cho hay, các cuộc điều tra, lấy mẫu phân tích vào năm 2007 và 2008 đã khẳng định nước ngầm ở các xã, thị trấn trong huyện có chứa asen vượt tiêu chuẩn 09/Bộ Y tế, cá biệt một số mẫu nước vượt TCVN 5942-1995 về nước mặt và TCVN 5944-1995 về nước ngầm.
Trong chưa phải là sạch
Phó Chủ tịch UBND xã Giao Tiến Cao Xuân Chiến cho biết: Trạm cấp nước sinh hoạt của xã xây dựng với kinh phí 2,2 tỷ đồng hiện nay đáp ứng gần 70% nhu cầu của nhân dân trong xã. Nhưng thời gian qua, thanh tra Sở Y tế Nam Ðịnh tiến hành kiểm tra nguồn nước lấy từ sông Sò đã kết luận: Không bảo đảm dùng sinh hoạt. Tìm hiểu thực tế được biết, vào mùa đông nước sông Sò cạn trơ đáy, mầu nước đen bởi rác phế thải sinh hoạt nhưng vẫn được lấy vào kênh cấp hai của xã, sau đó đưa vào hồ lắng rồi bơm lên bể lọc để cung cấp nước cho người dân. Ông Phạm Ngọc Rật, Phó phòng Tài nguyên môi trường huyện Giao Thủy nói với chúng tôi: "Nước qua xử lý tại bốn nhà máy cấp nước hiện nay không thể gọi là nước sạch mà nên gọi là nước trong vì đều lấy từ nguồn nước sông Hồng ở gần biển nên có vị mặn, chua. Nhiều thời điểm, nước mặn vượt qua cả địa bàn huyện Giao Thủy vào tận xã Xuân Tân, huyện Xuân Trường, còn mùa ải nước cạn trơ đáy nên chắc chắn nguồn nước dùng cho trạm cấp nước sinh hoạt không thể bảo đảm được tiêu chuẩn vệ sinh".
Thói quen và hệ lụy
Nguyên nhân làm nguồn nước ngầm và nước mặt ở Giao Thủy ô nhiễm nặng được các cơ quan chuyên môn phân tích là do tác động của việc lạm dụng thuốc trừ sâu trong sản xuất nông nghiệp suốt thời gian dài. Ðó còn là hành vi xả rác thải bừa bãi xuống kênh mương và cả quá trình phát triển các khu, cụm công nghiệp, làng nghề nhưng không quan tâm đến việc xử lý nước thải sản xuất trước khi đổ ra môi trường. Trong thời gian công tác ở Giao Thủy, chúng tôi nhận thấy tại đây vẫn còn nhiều nhà tiêu không hợp vệ sinh, đây cũng là nguyên nhân làm môi trường nước tại địa bàn suy giảm. Xã Giao Châu có 8.400 dân nhưng nhà tiêu hợp vệ sinh chỉ có 608 cái, còn lại là nhà tiêu dội nước, nhà tiêu ủ phân và nhà tiêu đào cải tiến có ống thoát hơi. Lo ngại nhất là những nhà tiêu dội nước vẫn tồn tại trong các gia đình nông thôn, chất thải sẽ ngấm xuống mặt đất hoặc bị đẩy ra kênh, rạch rồi thành một vòng tròn luẩn quẩn lại được người dân sử dụng. Những năm gần đây, Trung tâm y tế dự phòng huyện Giao Thủy tiếp nhận và điều trị nhiều trường hợp mắc bệnh ngoài da, đau mắt đỏ, đồng thời phải huy động cán bộ tập trung dập các ổ dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm tại xã Giao Hà, Giao Châu.
Khuyến cáo
Ðể hạn chế dần việc dùng nước sinh hoạt bị ô nhiễm nặng, trước mắt các cấp, các ngành trong huyện Giao Thủy cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nhân dân nắm chắc và hiểu rõ những tác động không tốt đến sức khoẻ bản thân. Người dân nên giảm dần thói quen sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm nặng (đã được cơ quan chuyên môn khẳng định trong ăn, uống hằng ngày). Thời gian qua, nhiều gia đình nông thôn chuyển mạnh sang xây bể và lu chứa nước mưa, mỗi bể có thể tích vài mét khối. Ðây là sự lựa chọn cần thiết, tuy nhiên phải tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn, không phát triển ồ ạt theo lối tự phát, bởi đến nay toàn huyện có khoảng 35.000 bể nước mưa nhưng qua kiểm tra của Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường tỉnh vẫn có gần 4.000 bể không thể dùng để ăn uống được. Tại những xã, thị trấn chủ yếu dùng nước sinh hoạt bằng giếng khoan, giếng đào có chứa chất asen vượt quy định cho phép cần thực hiện ngay quy trình xử lý nước qua bể lọc cát thông thường hoặc cát hoạt tính. Theo ông Phạm Văn Sơn, Giám đốc Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường Nam Ðịnh, đây là cách làm đơn giản mà nhiều gia đình nông thôn có thể áp dụng, phương pháp này giảm từ 90% đến 95% lượng asen trong nước sinh hoạt. Về lâu dài, cần xúc tiến xây dựng các trạm cấp nước sinh hoạt theo cụm xã áp dụng quy trình xử lý nước tiên tiến, đây vẫn là phương án khả thi bảo đảm chất lượng nước phục vụ đời sống nhân dân.
|